Ngoài vật lý, Euler cũng nghiên cứu về thiên văn học, lý thuyết đường đạn, bản đồ, xây dựng, lý thuyết âm nhạc, thần học và triết học. Với những đóng góp cho khoa học, Euler được phong làm viện sỹ của 8 viện hàn lâm trên thế giới, trong đó có Anh, Pháp, Nga, Đức,…Ông cũng được coi là nhà toán học quan trọng nhất của thế kỷ XVIII. Thành tựu trong "thời đại hoàng kim" của văn học Nga. Sáng tác của các nhà thơ thế hệ sau cũng hết sức đa dạng: nhà thơ A. Blok (1880 -1921) với tập Thơ về người đàn bà tuvệt vời (1898 - 1904) làm rạng danh cho thi ca của chủ nghĩa tượng trưng (symbolisme); nhà thơ N Có 3 tiền đề : a. Giá trị truyền thống dân tộc: Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá trị truyền thống hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc VN, trở thành tiền đề tư tưởng - lý luận xuất phát hình thành tư tưởng HCM. - Đó là Họ cũng biết rằng một năm có 365 ngày, 6 tiếng, và 11 phút, chỉ sai khác hơn 1 phút so với hiểu biết hiện tại của chúng ta (365 ngày 6 tiếng 10 phút). Họ còn biết sự sắp xếp của các hành tinh trong hệ Mặt trời và một số vệ tinh/mặt trăng của chúng. Để có thể biết được điều đó, chắc chắn họ cần phải sử dụng đến kính thiên văn. thành tựu về kiến trúc la mã rất rực rỡ. người la mã khi xây dựng các công trình đều tuân thủ theo một đồ án bất di bất dịch đó là: hình vuông hay hình chữ nhật với các cạnh thật vuông vức được kẻ ô như bàn cờ. nhà kiến trúc sư nỗi tiếng của la mã là vitrius (86-26 tcn), mơ ước làm sống lại những kiến trúc cổ điển hy lạp. ông đã dành cả đời để … Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd Nợ Xấu. Các thành tựu thiên văn học từ giữa thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 191. Messier thành lập danh mục 103 tinh vân 1781 Charles Messier 26/06/1730 – 12/04/1817sinh ra ở miền Badonviller, vùng Lorraine nước Pháp. Ngay từ thời thiếuniên, niềm đam mê với thiên văn học của Messier đã đươc khơi dậy qua sự xuất hiện của sao chổi 6 đuôi năm 1744và hiện tượng nhật thực ngày 25/07/1748. Năm 1751, ông được nhận vào giúp việc cho nhà thiên văn hải quânPháp Joseph Nicolas Delisle. Quan sát thiên văn đầu tiên với tư cách chuyên nghiệp của Messier là sự kiện SaoThủy đi ngang qua Mặt Trời ngày 06/05/ 1774, Messier xuất bản danh mục đầu tiên bao gồm 45 "deep sky object" các thiên hà, tinh vân hoặcđám sao. Messier tiếp tục hoàn thiện và năm 1781, phiên bản cuối cùng của danh mục này ra đời với 103thiên thể. Trên thực tế, rất nhiều thiên thể trong danh mục của Messier là do người cộng sự của ông PierreMechain tìm ra. Trong thời gian từ năm 1921 đến năm 1966, một số nhà thiên văn học và sử gia đã tìm ra cácbằng chứng cho thấy rằng có thêm 7 thiên thể khác đã được Messier, hoặc là các bạn của ông, hoặc làPierre Mechain phát hiện ngay trước lần xuất bản cuối cùng. Các thiên thể đó được đánh số từ M104 đếnM110. Danh mục của Messier vẫn được sử dụng rộng rãi trong thiên văn học hiện đạiMặc dù danh mục Messier không trình bày các danh mục một cách khoa học như trong danh mục NGC, các thiênthể được sắp xếp theo vị trí trên bầu trời, tuy nhiên các thiên thể trong danh mục đã bao gồm đủ các loại tinh vân,thiên hà, đám sao mở, đám sao hình cầu, ... Do được xác định bởi một kính thiên văn cỡ nhỏ 102 mm nên cácthiên thể này đều rất gần Trái Đất và thường được chọn là là đối tượng trong các quan sát thiên văn chuyên nghiệpcũng như nghiệp dưTên ông được dùng để đặt cho một crater Các hố lõm tạo bởi các vụ va chạm của thiên thạch lên trên bề mặt thiênthể, của bụi vũ trụ lên vỏ các phi thuyền vũ trụ. trên Mặt Trăng, một tiểu hành tinh asteroid 7359 MessierMột số thiên thể Messier là các thiên hàM33M81M101M104Một số khác là các tinh vânM1 Tinh vân Con CuaM27M57tinh vân chiếc nhẫnM782. Sir Frederick William Herschel phát hiện ra Sao Thiên Vương 1781 vàKhám phá ra tia hồng ngoại 1800Sir Frederick William Herschel, 15 tháng 11, 1738 – 25 tháng 8, 1822 là nhà thiên văn học người Anh gốc Đức,chuyên gia về kỹ thuật, và nhà soạn nhạc. Sinh ở Hanover Đức, Wilhelm theo cha gia nhập vào quân đội củaHannover, nhưng sau đó nhập cư vào Anh ở tuổi 19. Vào tháng 5 năm 1773, ông mua được cuốnsách Astronomy của Ferguson. Nhờ cuốn sách này ông cảm thấy hứng thú với khoa học và đặc biệt là thiên văn. Từnăm 1774, ông đã có đầy đủ kỹ năng để chế tạo các loại kính thiên văn với các thấu kích xạ tuyệt hảo hơn bất kì cáinào được sản xuất trước đó. Cũng kể từ đây ông bắt đầu quan sát các thiên thể trên bầu 13 tháng 3 năm 1781, trên kính viễn vọng nhỏ của mình phát hiện một thiên thế lạ chuyểnđộng ngược chiều với các vật thể khác, ban đầu ông nghĩ nó là sao chổi, nhưng sau khi tính toán và xem xétkĩ ông mới xác định đó là một hành tinh mới - Thiên Vương tinh. Kể từ đây hành tinh ngoài cùng hệ MặtTrời không còn là Hỏa Tinh nữa mà là Thiên Vương tinh. Nhờ đó ông được bầu là thành viên của Hội Hoàng GiaAnh và được nhận giải thưởng hằng năm của Vua nước Anh và ông còn được vua George III phong là nhà Thiênvăn của triều 1789 Herschel sử dụng chiếc kính thiên văn phản xạ với gương cầu và tiêu cự để quan sát cácngôi sao trong nhiều tinh vân khácNăm 1800 , ông dùng lăng kính để tán xạ ánh sáng từ Mặt Trời và khám phá ra tia hồng ngoại có bước sóngdài hơn ánh sáng, nằm ngoài vùng ánh sáng có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Ngày này, các nhà thiên vănhọc quan sát vũ trụ theo nhiều cách khác nhau, từ sóng vô tuyến đến tia gamma trên quang phổ điện hồng ngoạiNăm 1802, lập xong một danh mục sao với hơn 2500 tinh vân và các quần sao cũng phát hiện ra hai vệ tinh của Sao Thổ Ngoài sở thích thiên văn học, Herschel cũng thích âm nhạc vớikhoảng 24 bản giao hưởng do ông sáng tác nhưng ít được biết đến. . Ông được trao tặng huy chương Copley củaHội Hoàng Gia Luân Đôn3. Quang phổ học được ứng dụng lần đầu tiên đầu thế kỷ 19Kỹ thuật quang phổ sử dụng ánh sáng truyền qua một vật thể trung gian lên một bề mặt, nhằm tạo ra một dảimàu sắc khác nhau. Trong đó, các thành phần có bước sóng khác nhau sẽ tạo ra các vạch màu khác trình này giúp xác định được thành phần của các vật thể trong vũ trụ, thậm chí ở khoảng cách rất xaTrái ĐấtKỹ thuật quang phổ được phát minh vào đầu thế kỷ 19 bởi Joseph von Fraunhofer 6 tháng 3 năm 1787 - 7tháng 6 nam 1826 là một nhà vật lý quang học người Đức. Ông được biết đến nhờ công lao khám phá ra phổ hấpthụ của ánh sáng Mặt Trời, một khám phá đã tạo nền tảng cho việc chế tạo ra kính quang phổ và các kính viễn vọngtiêu sinh tại Straubing. Ông trở thành trẻ mồ côi khi mới 11 tuổi và trở thành người học việc cho một thợ làmkính khó tính tên là Philipp Anton Weichelsberger. Năm 1801, cửa hàng kính ông làm bị sụp và Fraunhofer bị lấptrong đống vụn. Fraunhofer sau đó được Maximilian IV Joseph, một hoàng thân vùng Bavaria, thực hiện ca phẫuthuật cứu sống. Sau đó vị hoàng thân này cung cấp cho Fraunhofer sách và bắt người làm thuê của ông ta đểFraunhofer thời gian học tám tháng học, Fraunhofer tới làm tại viện quang phổ ở Benediktbeuern, một thầy tu dòng Benedic đã truyềndạy cách làm kính cho ông, sau đó Fraunhofer khám phá ra cách chế tác ra các loại kính quang phổ tốt nhất thế giới,ông đã lập ra các phương thức để đo độ tán sắcNăm 1818, Fraunhofer trở thành giám đốc viện quang phổNhờ các dụng cụ quang phổ tốt mà ông đã phát triển, Bavaria Bayern đã vượt qua nước Anh để trở thành trungtâm của ngành công nghiệp quang 1822 ông giành được học vị tiến sĩ tại Đại học ErlangenNăm 1824, ông được trao huân chương danh dự, trở thành một quý tộc và một công dân danh dự của MünchenÔng qua đời năm 1826 ở tuổi 39 do nhiễm độc hơi hoá học từ kim loại nặng trong quá trình làm kính4. Lần đầu tiên đo khoảng cách bằng đơn vị năm ánh sáng 1838 Friedrich Wilhelm Bessel 22 tháng 7, 1784 – 17 tháng 3, 1846 sinh tại Đức là một nhà toán học và thiên văn họcBessel được coi là nhà một trong những nhà thiên văn học đầu tiên sử dụng phưng pháp đo thị sai để tính ra khoảngcách đến các ngôi saoNăm 14 tuổi, Bessel vào làm việc cho hãng xuất – nhập khẩu Kulenkamp và nhanh chóng trở thành kế toán củahãng. Do phải thường xuyên đi theo các tàu hàng nên Bessel đã quan tâm đặc biệt đến vấn đề định hướng tronghàng hải, từ đó ông trở thành một nhà thiên văn học chuyên đã được một nhà thiên văn học nổi tiếng người Đức lúc bấy giờ là Heinrich Wilhelm Olbers quan tâm đến saukhi ông hoàn thành việc hiệu chỉnh các thông số về quỹ đạo của sao chổi HalleyHai năm sau, Bessel đã rời khỏi hãng Kulenkamp, chuyển đến làm việc tại đài thiên văn Lilienthal Bremen, Đức. Tạiđây, ông đã cùng với James Bradly quan sát và hiệu chỉnh vị trí của hơn 3222 ngôi saoNăm 26 tuổi, Bessel được vua Frederick William III của nước Phổ bổ nhiệm làm giám đốc đài thiên văn KönigsbergObservatoryBessel được coi là nhà một trong những nhà thiên văn học đầu tiên sử dụng phưng pháp đo thị sai để tínhra khoảng cách đến các ngôi sao. Năm 1838, ông sử dụng phép đo thị sai để xác định khoảng cách từ ngôisao 61 Cygnus đến Trái Đất là 10,3 năm ánh sáng, không chênh lệch nhiều so với con số được đo bằngphương pháp hiện đại là 11,4Ông là người có nhiều đóng góp lớn cho ngành thiên văn học và đã lập bản đồ vị trí của hơn ngôi dù không học đại học, Bessel đã trở thành một trong những nhà thiên văn nổi tiếng nhất trong nửa đầu thế kỷXIX. Tên ông được đặt cho một crater trên Mặt Trăng, một tiểu hành tinh asteroid 1552 Bessel5. Bức ảnh thiên văn đầu tiên 1839 -1840Henry Draper – sinh ra tại bang Virginia, đông Hoa Kỳ, là một thầy thuốc và nhà thiên vănhọc người Mỹ. Ông nổi tiếng là người tiên phong trong việc chụp hình các thiên thể. Ông tốt nghiệp đại học New Yorkkhi mới chỉ 20 tuổi. Ban đầu, Draper làm việc tại bệnh viện Bellevue, sau đó ông đảm nhiệm chức vụ giáo sư, trưởngkhoa y tại đại học New 1867, Draper kết hôn với Anna Mary Palmer, một phụ nữ giàu có và giao thiệp dù chỉ là một nhà thiên văn nghiệp dư, Henry Draper là một trong những người đi tiên phong trong việc ứngdụng kỹ thuật chụp ảnh vào quan sát thiên văn .Ông là người đầu tiên chụp hình Mặt Trăng thông qua một kínhviễn vọng vào mùa đông năm cũng là người đầu tiên chụp được ảnh quan phổ vạch hấp thụ của các ngôi sao 1872. Năm 1874, ông dẫnđầu đoàn nghiên cứu tiến hành chụp ảnh quá trình Sao Kim đi ngang qua Mặt Trời. Ngày 30/09/1880, Draper làngười đầu tiên chụp ảnh thành công tinh vân Orion với chiếc kính khúc xạ 11 inch, phơi sáng trong thời gian 50 chụp đầu tiên của tinh vân Orion, do giáo sư Henry Draper thực hiện vào năm 1880. Những ngôi sao lớn, có vẻsáng hơn tinh vân nhiều, là do sự phơi sáng quá đã được trao tặng nhiều phần thưởng và được bầu làm thành viên của nhiều tổ chức khoa học có uy qua đời khi còn rất trẻ bởi bệnh viêm màng phổi. Sau khi ông mất, vợ ông đã sáng lập ra huy chương HenryDraper, trao tặng cho những cá nhân có thành tích xuất sắc trong lĩnh vực vật lý thiên văn. Bà cũng là người tài trợcho đài thiên văn Harvard hoàn thành bản danh mục gồm hàng trăm nghìn ngôi sao Henry Draper Catalogue. Đâycũng là bản danh mục đầu tiên phân loại các ngôi sao dựa trên kiểu phổ một cách có hệ thốngTên ông được đặt cho một crater trên Mặt Doppler Khám phá ra hiện tượng dịch bước sóng của các nguồn phát chuyểnđộng1842Christian Andreas Doppler – là nhà toán học và vật lý học , nhà thiên văn học người Áo. Ôngsinh và lớn lên ở Salzburg, Áo. Cha ông là một thợ xây đá. Gia đình có nghề truyền thống này từ năm 1674. Côngviệc làm ăn của cha ông phát đạt nên gia đình có một ngôi nhà ở Quảng trường Hannibal nay đổi tên là Quảngtrường Makart ở kết thúc học trình ở Đại học Vienne năm 1829, Doppler được bổ nhiệm làm phụ tá các môn toán học cấp cao vàcơ học cho giáo sư A Burg. Trong thời gian 4 năm làm phụ tá này, Doppler đã xuất bản 4 bài khảo luận về toán tháng 3 năm 1835, ông nhận được lời mời tới giảng dạy ở "Trường Kỹ thuật cấp hai" tại Prahatháng 2 năm 1841 ông được bổ nhiệm chức giáo sư. dạy ở "Trường Bách khoa Praha" nay là Đại học Kỹ thuật Sécở Praha .Tại đây ông xuất bản hơn 50 bài về toán học, vật lý học và thiên văn năm sau, ở tuổi 39, Doppler xuất bản tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, "Über das farbige Licht derDoppelsterne und einiger anderer Gestirne des Himmels" On the coloured light of the binary stars and someother stars of the heavens. Có một ấn bản sao chép với bản dịch sang tiếng Anh của Alec Eden Trong tácphẩm này, Doppler đặt nguyên tắc của mình thành định đề sau này gọi là Hiệu ứng Doppler là tần số quansát được của một bước sóng phụ thuộc vào tốc độ tương đối của nguồn và người quan sát, .Cụ thể là nếunguồn chuyển động ra xa người quan sát thì bước sóng của nó sẽ dài thêm ra và ngược lạivà ông đã cốgắng sử dụng khái niệm này để giải thích màu sắc của các sao đôi. Hiệu ứng Doppler về âm thanh đãđược Buys Ballot xác minh năm từ trần ngày ở tuổi 49 tại Venezia Ý, lúc đó thuộc Đế quốc Áo vì bệnh phổi7 . Galle phát hiện ra hành tinh thứ 8 của Hệ Mặt Trời là Sao Hải Vương nhờ áp dụng cáckết quả tính toán về sự lệch quỹ đạo SaoThiên Vương của Leverrier 1846Johann Gottfried Galle 9 tháng 6, 1812 - 10 tháng 7, 1910 là nhà thiên văn học người làm việc tại đài thiên văn Berlin dưới sự chỉ đạo của Johann Franz Encke. Năm 1838, Galle đã phát hiện ravành đai C của Sao Thổ23/09/1846 ông được Le Verrier chỉ lên bầu trời vị trí của một hành tinh chưa được biết tới mà nhà khoa học ngườiPháp đã tính toán ra trong một thời gian dài và ngay tối hôm đó, cùng với học trò , Galle đã phát hiện ra thiên thểđúng như Le Verrier dự đoán Hai ngày sau, thiên thể đó được xác nhận là một hành tinh nằm bên ngoài Sao ThiênVương. Galle đã trở thành người đầu tiên quan sát được Sao Hải Vương NeptuneNăm 1851, Galle đảm nhiệm vai trò giám đốc đài thiên văn 1894, cùng với con trai là Andreas Galle, ông đã xuất bản danh mục bao gồm 414 sao chổiKhi ông mất tên ông được đặt cho một crater trên Mặt Trăng, một crater trên Sao Hỏa và một vành đai của Sao HảiVương8. Năm 1851 lần đầu tiên 1 thí nghiệm chứng minh sự tự quay của Trái Đấtdo Foucault thực hiệnJean Bernard Léon Foucault các sách vật lý tiếng Việt thường ghi là Phu-cô 18 tháng 9, 1819 - 11 tháng 2, 1868là nhà vật lý học title="Thành tựu của Văn Hóa Trung Hoa thời kỳ Trung đại"> Thành tựu của Văn Hóa Trung Hoa thời kỳ Trung đại 66 2 11 Thứ sáu, 09/06/2023 1543 GMT+7 ĐCSVN - Quán triệt và thực hiện Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm qua, tỉnh Thanh Hóa đã và đang đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Các phong trào thi đua đã giành được nhiều thành tựu quan trọng, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, góp phần thúc đẩy sự phát triển của địa phương. Sáng 9/6, tỉnh Thanh Hóa tổ chức Lễ kỷ niệm 75 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc 11/6/1948 – 11/6/2023; sơ kết 3 năm thực hiện Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XIII và biểu dương các điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tại lễ kỷ niệm, các đại biểu đã cùng nhau ôn lại quá trình thực hiện Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh 75 năm qua, đồng thời khẳng định Đến nay, Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên ý nghĩa lịch sử, giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, đưa phong trào thi đua của cả nước có bước phát triển mới cả về bề rộng và chiều sâu, có nhiều đổi mới không chỉ về nội dung, mà cả về hình thức. Các phong trào thi đua tập trung vào giải quyết những nhiệm vụ khó khăn của cả nước và của từng ngành, từng địa phương, đơn vị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền quốc gia, tích cực chủ động hội nhập quốc tế. Quán triệt và thực hiện Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm qua, tỉnh Thanh Hóa đã và đang đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tiêu biểu là các phong trào thi đua trọng tâm “Chung sức xây dựng nông thôn mới"; “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở”; “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”; “Xây dựng Thanh Hóa trở thành tỉnh kiểu mẫu”; Phong trào thi đua đặc biệt “Cả nước đoàn kết, chung sức, đồng lòng thi đua phòng, chống và chiến thắng đại dịch COVID-19”... Các phong trào thi đua đã giành được nhiều thành tựu quan trọng, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Tại lễ kỷ niệm, tỉnh Thanh Hóa đã tặng Bằng khen cho 58 tập thể, 75 cá nhân điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, giai đoạn 2021 - 2023. Nhân dịp này, tỉnh Thanh Hóa cũng trao chứng nhận cho 17 tác giả, nhóm tác giả đoạt giải trong hoạt động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học - nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; trao chứng nhận cho 7 tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động quảng bá về chủ đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh"./.Phạm Như Quỳnh 6. William Herschel William Herschel là nhà thiên văn học người Anh gốc Đức, chuyên gia về kỹ thuật kiêm nhà soạn nhạc. Herschel nổi tiếng nhờ phát hiện ra sao Thiên Vương cùng hai vệ tinh lớn của nó Titania và Oberon. Thêm nữa, ông còn phát hiện ra hai vệ tinh của sao Thổ và bức xạ hồng ngoại. Ngoài sở thích thiên văn học, Herschel có đam mê mãnh liệt với âm nhạc; ông sáng tác khoảng 24 bản giao hưởng nhưng ít được biết đến. Ngày 13/3/1781, trên kính viễn vọng nhỏ của mình, W. Herschel phát hiện một thiên thể lạ. Ban đầu, ông nghĩ nó là sao chổi nhưng sau khi tính toán và xem xét kĩ, ông xác định đó là một hành tinh mới - Thiên Vương tinh. Kể từ đó, hành tinh ngoài cùng hệ Mặt Trời không còn là sao Hỏa nữa mà thay vào đó là sao Thiên Vương. Nhờ khám phá này, ông được bầu làm thành viên của Hội Hoàng Gia Anh và được nhận giải thưởng hàng năm từ Hoàng gia. Hơn thế nữa, ông còn được vua George III phong hiệu là “Nhà Thiên văn của Triều đình”. 7. Johannes Kepler Nhà thiên văn học người Đức Johannes Kepler 27/12/1571 – 15/11/1630 là người đầu tiên có thể giải thích một cách đầy đủ về sự chuyển động của các hành tinh trong Hệ Mặt Trời. Ông miêu tả sự chuyển động này bằng ba quy luật mà sau này chúng đã được xuất bản vào năm 1609. Để mở khóa bí ẩn về vũ trụ, ông tưởng tượng mọi hành tinh đều quay quanh một quỹ đạo hình ê-líp thay vì hình tròn như quan niệm của các nhà thiên văn học cùng thời khác. Và đây cũng là quy luật đầu tiên ông dùng để miêu tả sự chuyển động của các hành tinh. Giống như Copernicus, Kepler cũng tin vào thuyết Nhật tâm. Ông đã vấp phải rất nhiều sự phản đối từ phía Hội đồng Nhà thờ khi họ cho rằng Trái Đất mới là trung tâm của vũ trụ. Tuy vậy, những trở ngại này lại chỉ khiến Kepler thêm mạnh mẽ, tiếp thêm cảm hứng cho những nghiên cứu sau này của ông. Điều thú vị nằm ở chỗ Kepler vốn là một con chiên rất ngoan đạo. Thậm chí, ông từng lên kế hoạch trở thành giáo sĩ trước khi dấn thân vào con đường khoa học. Kepler từng làm việc khá thân thiết với Tycho Brahe nhưng mối quan hệ giữa cả hai tương đối gượng gạo. Có tài liệu ghi lại cho rằng Brahe sợ người trợ lý của mình sẽ làm lộ các nghiên cứu của ông. Điều này xảy ra sau khi Kepler phát hiện quy luật chuyển động của các hành tinh. Sau này, Kepler còn đóng góp nhiều khám phá rất quan trọng như sự ảnh hưởng của Mặt Trăng với thủy triều hay thiết lập một vài phép tính tích phân. 8. Edwin Powell Hubble Edwin Powell Hubble 20/11/1889 – 28/9/1953 là một nhà vật lý, nhà thiên văn học quốc tịch Mỹ. Ông là người rất thành công trong lĩnh vực nghiên cứu về thiên văn, vũ trụ khi khám phá ra các ngân hà khác bên ngoài ngân hà Milky Way mà chúng ta từng biết. Mặc dù thành quả này là tập hợp những sự đóng góp của nhiều nhà khoa học khác nhau nhưng Hubble đóng vai trò chính trong việc quan sát qua kính viễn vọng Hooker. Tiếng tăm của ông nổi lên nhờ phát hiện Vũ trụ là vô tận và Thiên hà chúng ta đang sống chỉ là một phần không đáng kể. Bên cạnh đó, tên của Hubble còn được đặt cho một định luật do chính ông phát hiện ra. Ngày nay, chúng ta gọi là Định luật Hubble các ngôi sao càng xa trung tâm vũ trụ thì di chuyển xa ra khỏi trung tâm với tốc độ càng nhanh. Hubble sau đó cũng được dùng để đặt tên cho Đài thiên văn vũ trụ Hubble - một trong những đài thiên văn lớn nhất thế giới hiện nay. Trong những năm tháng cuối đời, ông dành nhiều thời gian tranh luận cho việc xem xét, nhìn nhận lĩnh vực thiên văn học là một ngành của Vật lý. Sau nhiều năm tranh luận, Ủy ban trao Giải Nobel cho rằng nhận định của ông là đúng. Tuy nhiên, quyết định này là quá muộn khi ông đã qua đời vào năm 1953 mà không nhận được giải thưởng khoa học uy tín này. 9. Hipparchus Hipparchus là một nhà thiên văn học Hy Lạp cổ đại nổi tiếng những năm 140 - 125 trước Công nguyên, thuộc thế hệ các nhà thiên văn đầu tiên của thế giới. Được biết đến là nhà thiên văn học vĩ đại nhất của thời cổ đại, có thể xem Hipparchus như cha đẻ sáng lập ra ngành thiên văn. Đóng góp quan trọng nhất của ông đối với lĩnh vực này là tập hợp được một danh mục toàn diện nhất về hàng trăm ngôi sao mà ông quan sát được. Danh mục này sau đó đã được sử dụng rộng rãi bởi Ptolemy trong các quan sát thiên văn của mình. Một công trình khác không thể không nhắc tới của Hipparchus là nghiên cứu về sự di chuyển chậm của các vì sao và chòm sao tương ứng với đường xích đạo trên bầu trời. Ông còn vận dụng lượng giác - một đề tài mà ông cho là tiền đề cơ bản để đo chính xác khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trăng trong thời điểm nhật thực. Ngoài ra, Hipparchus còn nổi tiếng với việc phát minh ra các phương pháp đo độ sáng của một ngôi sao mà vẫn còn được sử dụng đến ngày nay. 10. Galileo Galilei Galileo Galilei 15/2/1564 – 8/1/1642 là nhà thiên văn học, vật lý học, toán học và triết học người Ý, đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng khoa học. Các thành tựu của ông gồm những cải tiến cho kính thiên văn và cách quan sát thiên văn sau đó, ủng hộ Chủ nghĩa Copernicus. Những đóng góp của ông trong lĩnh vực thiên văn học quan sát bao gồm việc xác nhận các tuần của sao Kim bằng kính thiên văn, phát hiện bốn vệ tinh lớn nhất của sao Mộc sau này được đặt tên là các vệ tinh Galileo để vinh danh ông và quan sát, phân tích vết đen Mặt Trời. Galileo cũng tham gia công việc nghiên cứu khoa học - công nghệ ứng dụng, cải tiến thiết kế la bàn. Không chỉ là người đầu tiên thông báo về các ngọn núi và hố va chạm trên Mặt Trăng, ông còn ước tính được chiều cao của các ngọn núi từ các quan sát đó. Điều này dẫn ông đi tới kết luận rằng Mặt Trăng "xù xì và không bằng phẳng, giống như chính bề mặt của Trái Đất", chứ không phải là một mặt cầu hoàn hảo như Aristotle đã tuyên bố trước đó. Việc Galileo bênh vực cho Chủ nghĩa Copernicus đã gây ra sự tranh cãi lớn nhất trong đời ông khi đi ngược lại quan điểm Địa tâm Trái Đất là trung tâm của vũ trụ. Sau khi Galileo trình bày thuyết Nhật tâm, giáo hội Công giáo Rôma ngay lập tức ban lệnh cấm tuyên truyền nó vì trái ngược với ý nghĩa của Kinh Thánh. Galileo cuối cùng buộc phải từ bỏ thuyết Nhật tâm của mình và sống những ngày “giam lỏng” tại gia đến cuối đời theo lệnh của Toà án dị giáo La Mã. Thiên văn học là gì? Thiên văn học nghiên cứu đối tượng nào? Nội dung nghiên cứu thiên văn học? Phương pháp nghiên cứu thiên văn học? Mối liên hệ của thiên văn với các môn khoa học khác?Loài người xuất hiện và từ lâu đã hướng mắt lên bầu trời, con người vẫn luôn tìm cách thiết đặt ý nghĩa và trật tự cho vũ trụ xung quanh mình. Mặc dù chuyển động của các chòm sao là dễ theo dõi nhất, nhưng những sự kiện thiên thể khác như nhật nguyệt thực và chuyển động của các hành tinh cũng đã được ghi chép và dự đoán. Thiên văn học là một vấn đề luôn được quan tâm từ khi con người xuất hiện cho đến nay. Vậy, thiên văn học là gì? Đối tượng, nội dung và phương pháp của nó ra sao? Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại Mục lục bài viết 1 1. Thiên văn học là gì? 2 2. Đối tượng, nội dung nghiên cứu thiên văn học 3 3. Phương pháp nghiên cứu thiên văn học 4 4. Mối liên hệ của thiên văn với các môn khoa học khác Ta hiểu về thiên văn học như sau Thiên văn học được hiểu cơ bản chính là hoạt động nghiên cứu mặt trời, mặt trăng, các sao, các hành tinh, sao chổi, các thiên hà, chất khí, bụi và các vật thể và hiện tượng khác ngoài Trái đất. Cũng có thể định nghĩa thiên văn học đơn giản là “nghiên cứu các sao, các hành tinh và không gian.” Thiên văn học và chiêm tinh học gắn liền với nhau về mặt lịch sử, nhưng chiêm tinh học không phải là khoa học và không còn được xem là có dính líu với thiên văn học. Sự phát triển của thiên văn học Các chủ thể là những nhà thiên văn học của những nền văn minh đầu tiên đã tiến hành những cuộc quan sát có phương pháp bầu trời đêm, và các dụng cụ thiên văn học đã được tìm thấy từ những giai đoạn còn sớm hơn nữa. Tuy nhiên, sự xuất hiện của kính viễn vọng là thời điểm thiên văn học bắt đầu bước vào giai đoạn khoa học hiện đại. Về lịch sử, thiên văn học từng gồm cả các ngành đo sao, hoa tiêu thiên văn, quan sát thiên văn, làm lịch, và thậm chí cả chiêm tinh học, nhưng ngành thiên văn học chuyên môn hiện đại ngày nay thường chỉ có nghĩa vật lý học thiên thể. Từ thế kỷ XX, lĩnh vực thiên văn học chuyên nghiệp được chia thành các nhánh quan sát và thực nghiệm. Thiên văn học quan sát chú trọng tới việc thu thập và phân tích dữ liệu, sử dụng các nguyên tắc cơ bản của vật lý. Thiên văn học lý thuyết định hướng theo sự phát triển các mô hình máy tính hay mô hình phân tích để miêu tả các vật thể và hiện tượng thiên văn. Hai lĩnh vực bổ sung cho nhau, thiên văn học lý thuyết tìm cách giải thích các kết quả quan sát, và việc quan sát lại thường được dùng để xác nhận các kết quả lý thuyết. Các nhà thiên văn nghiệp dư cũng đã đóng góp nhiều khám phá quan trọng cho thiên văn học, và thiên văn học là một trong số ít ngành khoa học nơi các nhà thiên văn nghiệp dư có thể đóng vai trò quan trọng, đặc biệt trong sự phát hiện và quan sát các hiện tượng thoáng qua. Thiên văn học cổ hay thậm chí thiên văn học cổ đại không nên bị nhầm lẫn với ngành chiêm tinh học, hệ thống niềm tin rằng những công việc của con người liên quan tới các vị trí của các vật thể vũ trụ. Dù hai lĩnh vực này trên thực tế cùng có nguồn gốc chung và một phần phương pháp thực hiện cụ thể, việc sử dụng lịch thiên văn, chúng là khác biệt. Thiên văn học trong tiếng Anh là astronomy. 2. Đối tượng, nội dung nghiên cứu thiên văn học Nội dung nghiên cứu của thiên văn học sẽ có thể chia làm 3 phần chính đó là – Về quy luật chuyển động của các thiên thể trong mối quan hệ giữa Trái đất và bầu trời. – Về cấu trúc và bản chất vật lý của các thiên thể và các quá trình xảy ra trong vũ trụ. – Về nguồn gốc hình thành và phát triển của các thiên thể, của hệ thống của chúng và của vũ trụ. Việc thực hiện phân chia các nội dung này rất trùng khớp với lịch sử phát triển của môn thiên văn học. Sự phức tạp của nội dung tăng dần cùng với sự phát triển của môn học. Đối tượng nghiên cứu của thiên văn cũng được xác định ngày càng rộng ra và phức tạp hơn. Từ thiên thể khá là chung chung, chỉ các vật trên bầu trời, được mở rộng ra, cụ thể hơn, đa dạng hơn. Từ mặt trời, mặt trăng, các hành tinh, các thiên thạch… đến các vệ tinh nhân tạo, các sao, bụi sao Tinh vân các quần sao, các thiên hà. Càng ngày người ta càng phát hiện ra nhiều vật thể lạ có những vật được tiên đoán trước bằng lý thuyết như sao nơ trôn pun xa, các quaza, các lỗ đen Như vậy, qua phân tích nêu trên, ta thấy thiên văn không phải thuần túy là môn khí tượng học hay môn chiêm tinh như người ta thường nhầm. 3. Phương pháp nghiên cứu thiên văn học Bởi vì đối tượng nghiên cứu là những vật thể rất to lớn và ở trong vũ trụ xa xôi trừ Trái đất nên phương pháp nghiên cứu của thiên văn cũng rất đặc biệt, thậm chí không giống bất kỳ một môn khoa học nào. Phương pháp chủ yếu của thiên văn cổ điển là quan sát và quan trắc. Người ta không thể làm thí nghiệm với các thiên thể tức không thể bắt chúng tuân theo những điều kiện mà ta tạo ra, cũng không thể trực tiếp “sờ mó” được chúng. Nguồn thông tin chủ yếu là ánh sáng từ các thiên thể. Bởi vì ảnh hưởng của khí quyển, do chuyển động của Trái đất và do chính tính chủ quan của việc quan sát làm cho kết quả nghiên cứu có thể bị hạn chế, thậm chí dẫn đến những kết luận sai lầm. Một khó khăn nữa phải kể đến của việc quan sát là các hiện tượng thiên văn xảy ra trong một thời gian rất dài so với đời sống ngắn ngủi của con người và đôi khi không lặp lại. Tuy vậy, khi khoa học càng phát triển thì việc nghiên cứu thiên văn càng trở nên dễ dàng hơn. Nguồn thông tin chính được gửi đến trái đất là bức xạ điện từ được khai thác triệt để ở cả hai vùng khả kiến và vô tuyến đã giúp cho sự hiểu biết về vũ trụ được phong phú hơn. Bên cạnh đó thì cùng với sự phát triển của ngành du hành vũ trụ cũng là một thành tựu của thiên văn con người đã bước ra khỏi sự ràng buộc, hạn chế của Trái đất để có được những thông tin khách quan hơn về vũ trụ. Việc xử lý thông tin bằng kỹ thuật tin học đã giúp thiên văn phát triển vượt bậc. Khác hẳn với thiên văn cổ điển là kiên trì thu thập số liệu quan trắc và suy luận để tìm ra qui luật, thiên văn hiện đại sử dụng phương pháp mô hình hóa, đề ra những thuyết có tính chất dẫn đường và việc quan sát thiên văn là tìm kiếm những bằng chứng để kiểm định sự đúng đắn của lý thuyết. Nhìn chung, ta nhận thấy rằng, phương pháp nghiên cứu khoa học của thiên văn cũng nằm trong khuôn khổ những phương pháp luận khoa học nói chung, nó luôn phát triển và sẽ còn được hoàn thiện mãi. 4. Mối liên hệ của thiên văn với các môn khoa học khác Như các phân tích cụ thể bên trên, ta nhận thấy, thiên văn học có liên hệ với rất nhiều ngành khoa học. Thiên văn họ vốn là một môn khoa học xuất hiện rất sớm, ngay từ trong các nền văn minh cổ, thiên văn là nội dung chính của các cuộc đàm đạo của các nhà thông thái. Sau này, khi khoa học đã có sự phân hóa rõ rệt, thiên văn là môn khoa học góp phần đắc lực nhất vào việc trả lời những câu hỏi lớn của triết học. Mối quan hệ của thiên văn với vật lý là quá rõ ràng. Trong quá trình học thiên văn ta sẽ thấy rõ điều này. Các định luật vật lý được ứng dụng trong thiên văn, đem lại phương tiện để giải quyết những vấn đề của thiên văn. Nhưng đồng thời chính thiên văn thường dẫn đường và nêu ra những ý tưởng mới cho vật lý. Công cụ tính toán của thiên văn chínhlà toán học, nhất là phần thiên văn tính toán. Rất nhiều chủ thể là những nhà thiên văn đồng thời là các nhà toán học. Trước kia môn thiên văn cũng thường được dạy trong khoa toán. Trong quá trình tìm hiểu cấu tạo của các thiên thể ta không thể không biết đến hóa học. Ngày nay trong thiên văn có riêng ngành hóa học thiên văn. Sinh vật học cũng tìm được cách lý giải rất nhiều vấn đề của mình nhờ thiên văn. Đặc biệt trong sinh học, mối quan hệ Thiên – Địa – Nhân ngày càng được chú ý. Để nhằm mục đích có thể hiểu rõ bản chất nguồn gốc và sự tiến hóa của sự sống không thể không biết gì về thiên văn. Đối với địa lý môn thiên văn chính là người anh em. Đối tượng nghiên cứu của địa lý tự nhiên là Trái đất, một thành viên của hệ Mặt trời. Không thể hiểu rõ được Trái đất nếu không nắm được mối quan hệ của nó với các thành viên trong hệ nói riêng và trong toàn vũ trụ nói chung. Ngay cả môn lịch sử, vốn là môn khoa học xã hội tưởng như xa lạ với thiên văn, nhưng để các chủ thể có thể xác định chính xác các sự kiện trong lịch sử phải biết cách tính thời gian trong thiên văn. Nhiều công trình cổ của các nền văn minh lớn của loài người đều ghi lại các kiến thức thiên văn thời đó. Vũ trụ được đánh giá chính là một phòng thí nghiệm thiên nhiên vô cùng vĩ đại cho tất cả các ngành khoa học. Chính thiên văn kích thích các ngành kỹ thuật khác phát triển theo. Tầm quan trọng của việc nghiên cứu và giảng dạy thiên văn là rất rõ ràng. Đó không chỉ là vấn đề học thuật, mà còn là vấn đề quan trọng để xây dựng nhân sinh quan, thế giới quan đúng đắn cho con người. Nhà thiên văn, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris Thiên văn học là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử loài người. Những dấu vết khởi đầu của ngành thiên văn có từ thời tiền sử. Qua quan sát chuyển động biểu kiến của Mặt Trời, Mặt Trăng, con người đã tìm ra những thời điểm thay đổi của thời tiết. Vào cuối thời đại đồ đá thiên niên kỷ 4 - 3 TCN, ở những nền văn minh cổ đại, quan sát bầu trời là công việc rất quan trọng của giới tăng lữ. Trước khi con người học được cách định vị trên Trái Đất và sáng tạo ra môn địa lý học, họ đã quan sát bầu trời và sản sinh ra những mô hình đầu tiên của nó. Thời điểm thiên văn học trở thành một môn khoa học theo cách nhìn nhận ngày nay đã diễn ra vào thế kỉ 16 nhờ công sức của Nicolaus Copernicus, kế tiếp là Galileo Galilei, Johannes Kepler, Isaac Newton. Một trong những tác nhân quan trọng nhất đối với cuộc cách mạng thiên văn học của Nicolaus Copernicus là phát minh kính viễn vọng. Những bước tiến của thiên văn học hiện đại đã xảy ra vào nửa cuối thế kỷ 19 khi các phương pháp phổ học và chụp hình được sử dụng trong quan sát thiên văn. Những bước nhảy vọt của thiên văn học được ghi nhận vào những năm 40 của thế kỷ 20 nhờ các quan sát thiên văn vô tuyến và tiếp đó là sự kiện con người khắc phục được những cản trở của khí quyển Trái Đất khi quan sát toàn vẹn phổ của vũ trụ từ các vệ tinh nhân tạo. Thiên văn Ai cập[sửa] Khoảng năm trước Công Nguyên, tại thung lũng sông Nil, một trong những nền văn minh lâu đời nhất đã xuất hiện nền văn minh Ai cập cùng với ngành thiên văn học gắn chặt với con sông hùng vĩ này. Các vị tư tế nhanh chóng nhận thấy trước khi nước sông dâng cao luôn có hai sự kiện xảy ra ngày hạ chí và sao Thiên Lang mọc vào lúc bình minh sau 70 ngày vắng mặt. Lúc đó, người Ai Cập cũng đã có âm lịch với 12 tháng, mỗi tháng 29 đến 30 ngày và cứ sau hai đến ba năm, họ lại cộng thêm vào một tháng để luôn phù hợp với các mùa trong năm. Lịch Ai Cập cổ đại lấy ngày bắt đầu của năm là ngày đầu của tuần trăng non sau khi sao Thiên Lang mọc trở lại. Ngoài lịch có tính chất tôn giáo này, người Ai Cập còn có Lịch lược đồ, cũng có 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày và cuối năm thêm năm ngày nữa. Bầu trời được chia thành 45 chòm sao và con người đã biết đến các hành tinh như Sao Mộc, sao Hoả, Sao Thổ, Sao Kim, sao Thuỷ. Quan niệm của người Ai Cập về vũ trụ gắn liền với đa thần giáo. Trung tâm của thế giới là thần Geb, vị thần tượng trưng cho Trái Đất, người chị đồng thời là vợ của Geb - thần Nut chính là bầu trời. Nut sinh ra thần Ra - thần Mặt Trời và các vì sao còn Ra sinh ra Thoth - thần Mặt Trăng. Do Nut cứ sáng ra lại nuốt hết các vì tinh tú rồi đến đêm mới thả ra nên thần Shu, cha của bà, đã nâng bầu trời lên khỏi mặt đất. Thần Ra ban ngày bơi trên sông Nil ở thượng giới, chiếu sáng mặt đất còn ban đêm lại du hành dưới sông Nil chốn âm phủ và chiến đấu với những thế lực đen tối để rồi sáng hôm sau lại xuất hiện phía chân trời. Về dụng cụ thiên văn, người Ai Cập đã sáng chế ra đồng hồ Mặt Trời, đó chính là những cột bia thờ thần Ra, nó cho phép xác định độ cao của Mặt Trời so với đường chân trời. Để đo thời gian về ban đêm, các vị tư tế theo dõi vị trí của những ngôi sao. Người Ai Cập cũng đã cống hiến cho nhân loại ý tưởng xác định một giờ bằng 1/24 độ dài của một ngày đêm, thống nhất cho mọi mùa trong năm. Thiên văn Lưỡng hà[sửa] Vùng Lưỡng Hà là nơi cư trú của người Sumer, Assyrie và Babylon. Các thành tựu thiên văn học của người Babylone "đã trở thành tài sản chung cho các nhà bác học Hy Lạp và đóng vai trò quan trọng trong lịch sử ngành khoa học này. Lý thuyết về Mặt Trăng của Hipparchus chẳng hạn, phần lớn là lấy cơ sở từ các dữ liệu của các nhà bác học Babylone, hệ thống các chòm sao thời cổ Hy Lạp có rất nhiều chòm lấy từ các chòm sao đã biết ở vùng Lưỡng Hà. Và ngày nay, chúng ta vẫn tiếp tục chia thiên cầu thành 360° như các nhà thiên văn cổ đại vùng Lưỡng Hà đã làm. Vào thời kỳ thành phố Babylone bị người Kassite xâm chiếm, bộ sách chiêm tinh Enuma Anu Enlil đã ra đời với gần lời tiên đoán. Thời kỳ Cổ Babylone, thiên văn học đã có những thành tựu quan trọng. Đầu thiên niên kỷ 2 TCN, người Babylone đã nhận biết được 5 hành tinh của Hệ Mặt Trời là Sao Kim, Sao Thuỷ, Sao Hoả, Sao Thổ và Sao Mộc cũng như đường đi của chúng. Họ cũng phân biệt 12 chòm sao trên hoàng đạo, nghiên cứu về sao chổi, sao băng, tính được nhật thực, nguyệt thực và đặt ra âm lịch. Tới cuối thiên niên kỷ 2 TCN, các vì sao được phân chia vào khoảng 70 chòm sao, trong đó có một số chòm trùng với các chòm sao ngày nay như Song Tử, Con Cua, Sư Tử, Bọ Cạp... Ngay từ đầu thiên niên ký thứ 3 TCN, người Sumer đã biết sao Hôm và sao Mai chỉ là một và đến cuối thiên niên kỷ đó, theo một văn bản ghi trên đất sét tìm được, họ đã có được danh sách các chòm sao cũng như việc phân biệt giữa hành tinh với định tinh. Trong thời kỳ của vương quốc Assyrie, bộ sách có niên đại vào khoảng năm 1100 TCN đã liệt kê danh mục các chòm sao, các sao, ngày tháng chúng mọc lên, 18 chòm sao nằm trên đường đi của Mặt Trăng tiền thân của các cung hoàng đạo. Ngoài ra nó còn ghi lại lịch Mặt Trời và bằng xác định thời gian ban ngày theo cách đo đội dài bóng cọc tiêu. Dưới triều đại các vị vua Assyrie cuối cùng, chiêm tinh học và thiên văn học được liệt vào những công việc quan trọng của vương quốc, một mạng lưới các đền thờ đồng thời là đài quan sát thiên văn hình thành, kết quả quan sát được báo cáo đều đặn cho quốc vương. Từ giữa thế kỷ 8 TCN, nhật thực, nguyệt thực được ghi lại trong danh sách đặc biệt và nhật ký quan sát thiên văn được lập ra. Ngoài thiên thực, những ngày trăng non, trăng tròn, vị trí của Mặt Trăng so với các vì sao, sự dịch chuyển của các hành tinh, sự xuất hiện của sao chổi, ngày phân, ngày chí... cũng được ghi chép cẩn thận. Sang thời kỳ Tân Babylone, với sự phát triển của toán học, chuyển động của Mặt Trăng và các hành tinh được tính toán với độ chính xác cao hơn. Đóng góp nổi bật của giai đoạn này là sự phát triển khái niệm hoàng đạo vòng tròn lớn của hoàng đới được chia thành 12 phần bằng nhau, mỗi phần tương ứng với một chòm sao và gọi là cung hoàng đạo. Đó cũng là thang chia độ để xác định vị trí của Mặt Trăng, Mặt Trời, các hành tinh. Cũng vào thời kỳ này, người Lưỡng Hà sử dụng lịch Mặt Trăng và Mặt Trời kết hợp, mỗi tháng có 29 đến 30 ngày và bắt đầu vào buổi tối khi lưỡi liềm của trăng non xuất hiện. Năm bắt đầu từ mùa xuân và gồm 12 hoặc 13 tháng Mặt Trăng. Các tháng phụ được cộng thêm vào sao cho ngày đầu tiên của năm trùng với kỳ lúa đại mạch chín, cứ một chu kỳ 19 năm, bảy tháng phụ lại được thêm vào. Người Babylone cũng tìm ra chu kỳ Saros - chu kỳ 18 năm của nguyệt thực để có thể dự báo nó và Seleucus thành Seleucia, người ủng hộ thuyết nhật tâm. Thiên văn Hy lạp La mã[sửa] Kế thừa những thành tựu của thiên văn học Lưỡng Hà, người Hy Lạp cổ đại đã có bước phát triển quan trọng trong lý thuyết và phương pháp tính toán để đưa thiên văn học tiến một bước dài. Những gì mà họ tạo ra sau này đã được người Ả Rập và châu Âu tiếp tục sử dụng. Vào buổi sơ khai, người Ai Cập cổ đại quan niệm vũ trụ được mặt đất chia thành hai phần, phần trên là bầu trời sáng láng còn phía dưới là địa ngục tối tăm. Ban ngày Thần Mặt trời cưỡi cỗ xe rực lửa chạy khắp bầu trời và ban đêm bơi trên một cái chén vàng theo đại dương bao quanh mặt đất. Sử dụng thành tựu của những người đi trước, Ptolemy khoảng 100 - khoảng 178 đã tiếp tục xây dựng, phát triển lý thuyết về chuyển động biểu kiến của hành tinh. Ông đã sáng chế ra những dụng cụ đo góc để quan sát các vì sao như thước xích cầu, thước ngắm tam giác... và bổ sung vào danh mục các vì sao của Hipparchus đưa tổng số lên đến 1022. Mô hình vũ trụ của ông lấy Trái Đất làm trung tâm, các thiên thể chuyển động quanh đó. Các hành tinh không quanh quanh Trái Đất mà chuyển động đều trên các vòng tròn phụ gọi là ngoại luân và tâm của các ngoại luân mới mới chuyển động đều quanh Trái Đất theo vòng tròn lớn gọi là bản luân. Mô hình của Ptolemy đã được chấp nhận rộng rãi cho đến tận thời Phục Hưng khi Nicolaus Copernicus khẳng định Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời. Ngoài các công trình nghiên cứu thiên văn được tập hợp thành bộ sách đồ sộ Almagest, ông còn để lại những chỉ dẫn về chiêm tinh học trong tác phẩm Tetrabiblos. Hipparchus khoảng 190 TCN - khoảng 120 TCN cũng có những đóng góp quan trọng. Ngoài việc xác định hoàng vĩ và hoàng kinh kinh độ và vĩ độ theo hệ tọa độ hoàng đạo của 850 ngôi sao, ông đã đưa ra ý niệm về cấp sao biểu kiến. Ông cũng là người khám phá ra hiện tượng tuế sai trong chuyển động của các hành tinh, tính toán độ dài của một năm, khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trăng với độ chính xác cao. Dùng phương pháp đo góc, Eratosthenes 276 TCN - 194 TCN đã tính toán được đường kính Trái Đất. Mặc dù độ chính xác của con số này là chủ đề tranh luận của các học giả nhưng chắc chắn rằng nó ở mức cao, thậm chí tuyệt vời. Mô hình vũ trụ của Ptolemy. Aristotle 384 TCN - 322 TCN cũng cho rằng chuyển động hướng tâm và ly tâm là chuyển động tự nhiên còn những chuyển động khác phải có lực tác động vào. Sở dĩ các thiên thể chuyển động được là do "sức đẩy nguyên thủy" có tính chất thần thánh, nằm ngoài không gian và thời gian. Lý thuyết về vũ trụ của ông có ảnh hưởng sâu sắc đến các học giả thời Trung Cổ và họ đã điều chỉnh nó cho phù hợp với giáo lý Ki - tô. Được hậu thuẫn bởi giới chức tôn giáo, mô hình của Aristotle đã tồn tại nhiều thế kỷ, và thật không may mắn, điều này đã kìm hãm sự phát triển của khoa học bởi lẽ rất ít người dám thách thức quyền lực của nhà thờ. Sau khi La Mã xâm chiếm Hy Lạp, các nhà thiên văn học người Hy Lạp vẫn tiếp tục hành trình khám phá của mình. Ngoài việc dùng phương pháp đo góc để tính toán khoảng cách tương đối từ Trái Đất đến Mặt Trăng và Mặt Trời, Aristarchus 310 TCN - khoảng 230 TCN còn là người đầu tiên trình bày một cách rõ ràng và có hệ thống về thuyết nhật tâm. Theo đó, Mặt Trăng quay quanh Trái Đất, Trái Đất quay quanh trục của nó và các hành tinh quay quanh Mặt Trời. Nhà triết học Plato s. khoảng 428 TCN- 423 TCN; mất khoảng 348 TCN- 347 TCN trong tác phẩm Triết học tự nhiên Timaeus của mình đã cho rằng vũ trụ là do Đấng Sáng Tạo tạo ra bởi một hỗn hợp gồm hai bản thể bản thể tinh thần không thể phân chia và bản thể vật chất có thể phân chia. Vũ trụ phân thành 7 vòng với khoảng cách không đều nhau có tâm là Trái Đất. Khoảng cách tương đối từ Trái Đất đến quỹ đạo của các thiên thể theo tỷ lệ gấp đôi hoặc gấp ba, tỷ lệ mà theo ông các vòm cầu của vũ trụ đạt được sự hài hòa. Nhà triết học Philolaus 470 TCN – mất? coi Trái Đất là một trong những ngôi sao và chuyển động vòng tròn quanh một tâm điểm gây ra ngày và đêm. Vũ trụ của ông quay xung quanh một "ngọn lửa thần thánh" và gồm có bầu trời, các hành tinh, sau chúng là Mặt Trời, dưới Mặt Trời là Mặt Trăng, dưới Mặt Trăng là Trái Đất và Đối Trái Đất Antichtone giả thuyết nằm ẩn mặt phía sau ngọn lửa thần thánh. Philolaus cho rằng, Trái Đất quay quanh trục của mình. Đến thế kỷ 4 TCN, nền khoa học nói chung và thiên văn học nói riêng của Hy Lạp đã đạt đến trình độ chuyển từ suy luận chung sang nghiên cứu một cách cụ thể và có hệ thống các hiện tượng tự nhiên. Eudoxus khoảng 408 TCN - khoảng 347 TCN, người cùng thời với Plato đã có những đóng góp tiêu biểu cho khuynh hướng này. Ngoài việc vẽ được hình chiếu của chí tuyến trời và vòng Cực Bắc lên bề mặt Trái Đất cũng như đưa ra tỷ lệ giữa khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trăng và Mặt Trời, ông đã xây dựng giả thuyết về chuyển động của các hành tinh, còn gọi là giả thuyết về các hình cầu đồng tâm. Đây là mô hình có tính chất hình học đầu tiên về chuyển động của các hành tinh. Lý thuyết của ông cho rằng chuyển động biểu kiến của các hành tinh là tổng của các chuyển động xoay tròn đồng mức. Chuyển động của mỗi hành tinh là một tổ hợp của một số vòm cầu lồng vào nhau, các cực của mỗi vòm được xếp liên tiếp chồng lên nhau. Để mô tả chuyển động của Mặt Trăng, Mặt Trời, cần 3 vòm cầu, cái thứ nhất mô tả chuyển động quay quanh trục của nó; cái thứ hai mô tả các tiết điểm giao điểm của hoàng đạo và đường đi của Mặt Trăng trên hoàng đới; cái thứ ba có trục hơi nghiêng so với các cực của vòm cầu thứ hai mô tả độ lệch góc của quỹ đạo so với mặt phẳng hoàng đạo. Các hành tinh có chuyển động biểu kiến phức tạp hơn thì cần tới 4 vòm cầu và hệ thống của ông có tổng cộng 27 vòm cầu. Sau đó Callippus khoảng 370 TCN - khoảng 300 TCN đưa thêm vào 6 vòm cầu nữa thành 33 và Aristotle tăng số lượng của chúng lên 55. Nhà triết học Pythagoras khoảng 580 TCN – khoảng 500 TCN cũng cho rằng Trái Đất là một quả cầu nằm tại trung tâm vũ trụ và phát hiện ra rằng sao Hôm và sao Mai chỉ là một hành tinh. Sau đó Anaxagoras 500 TCN – 428 TCN đưa ra mô hình vũ trụ là một quả bóng hình cầu đang nở ra với Trái Đất là trung tâm. Ông cho rằng, Mặt Trời là một tảng đá nóng bỏng lớn hơn bán đảo Peloponnésos. Democritus khoảng 460 TCN – khoảng 370 TCN đưa ra ý niệm có vô số thế giới tồn tại trong vũ trụ vô cùng vô tận và được cấu thành bởi vô vàn các hạt nguyên tử. Vào thế kỷ 6 TCN, Thales khoảng 624 TCN – khoảng 546 TCN đã dự báo chính xác nhật thực xảy ra vào ngày 28 tháng 5 năm 585 TCN khi quan sát nhật thực lớn vào 18 tháng 5 năm 603 TCN, một tiến bộ quan trọng lúc đó. Ông chứng tỏ rằng các ngôi sao phát sáng nhờ ánh sáng của mình, trong khi Mặt Trăng được chiếu sáng nhờ ánh sáng Mặt Trời. Theo Thales, mặt đất là một chiếc ván phẳng bơi trên mặt nước. Học trò của ông - Anaximander khoảng 611 TCN – khoảng 546 TCN đã đưa ra một mô hình vũ trụ theo thuyết địa tâm đầu tiên trong lịch sử thiên văn học. Theo đó Trái Đất là trung tâm và bao quanh bởi ba vòng cầu lửa, vòng gần Trái Đất nhất có nhiều lỗ thủng nhỏ chính là những ngôi sao, vòng xa hơn có một lỗ thủng lớn - Mặt Trăng và vòng xa nhất có một lỗ thủng lớn nhất - Mặt Trời. Đó là một bước phát triển quan trọng bởi trước ông, những nghiên cứu thiên văn học chỉ dựa trên quan sát chứ không phải suy luận. Không những thế ông còn tìm cách giải thích nguồn gốc của vũ trụ cái không giới hạn Apeiron là khởi đầu của tồn tại; vũ trụ sinh ra, trưởng thành rồi chết đi và lại sinh ra theo vòng tuần hoàn. Thiên văn Trung quốc[sửa] Bản đồ sao Đôn Hoàng, thời nhà Đường, Trung Quốc. Quan niệm về vũ trụ của người Trung Quốc cổ đại chịu ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo. Vũ trụ buổi hồng hoang ở trạng thái mông lung, mờ mịt gọi là "thái cực" sau đó sinh ra "lưỡng nghi" âm và dương. "Lưỡng nghi" vừa tương khắc vừa kết hợp với nhau tạo thành năm khí chất chủ yếu ngũ hành là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Từ quan niệm "thiên địa hai tầng", tầng trên là trời - thế giới vô hình, tầng dưới là đất - thế giới hữu hình, đến thế kỷ 5, hình thành ba quan niệm về cấu trúc vũ trụ. Thuyết "cái thiên" hình dung bầu trời như một cái nắp hình bán cầu trùm lên mặt đất hình vuông. Thuyết "hồn thiên" thiên cầu mênh mông của Trương Hành 78 - 139 thì cho rằng vòm trời có khí ở trong và bao bọc Trái Đất, chân trời có nước còn Trái Đất nổi trên nước, trời có chín tầng khí với vận tốc và áp lực khác nhau, các vì sao được "cương phong" gió cứng nâng lên. Thuyết "tuyên dạ" đêm tối lan tràn, không trung vô tận lại coi bầu trời trống rỗng và vô cùng, vô cực; bảy tinh tú Mặt Trời, Mặt Trăng cùng năm hành tinh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ chuyển động tự do. Các sự kiện thiên văn được ghi chép ở Trung Quốc từ rất sớm và khá cụ thể. Các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, sao mới xuất hiện đã được chép lại từ khoảng năm trước Công Nguyên vào đời nhà Thương. Cho đến nay, ghi chép sớm nhất về vết đen Mặt Trời là sách Ngọc Hải, được ghi nhận không lâu sau năm 165 TCN. Hán Thư cũng ghi lại hiện tượng này khi nó xuất hiện ngày 10 tháng 5 năm 28 TCN. Thậm chí, dựa vào những lời ghi trong Kinh Dịch, có tài liệu còn cho rằng người Trung Quốc đã quan sát được vết đen Mặt Trời từ năm 800 TCN. Ở châu Âu, mãi tới đầu thế kỷ 9 mới có ghi chép về vết đen Mặt Trời. Ghi chép sớm nhất về sao chổi Halley nhìn thấy năm 613 TCN cũng được ghi trong Kinh Xuân Thu. Người Trung Quốc cũng ghi lại tỉ mỉ các hiện tượng xuất hiện sao mới, sao siêu mới mà họ gọi là "sao khách", sao băng...Hậu Hán Sử nhắc đến sao khách nhìn thấy ngày 7 tháng 12 năm 185. Vào thế kỷ 11 TCN, người Trung Quốc chia bầu trời sao vào hệ thống "tam viên nhị thập bát tú" với 28 chòm sao dựa theo 28 vì sao ở gần hoàng đạo và ba nhóm sao Tử Vi, Thái Vi, Thiên Thị tam viên ở xung quanh chòm sao Bắc Đẩu gồm 7 sao hình cái gàu sòng thuộc chòm Gấu Lớn theo cách chia hiện nay và thiên cực bắc. Danh mục sao cổ nhất của họ do Thạch Thân đời Chiến Quốc soạn có 122 chòm sao với 809 ngôi sao. Trương Hành thời Đông Hán đã sáng chế ra dụng cụ định vị sao gọi là hỗn thiên nghi và thống kê khoảng sao nhìn thấy được ở Trung Quốc, chia thành 124 chòm với 320 sao được đặt tên. Đến thời Tam Quốc, Trần Trác đã lập bản đồ và danh mục sao gồm 283 chòm tinh quan, sao. Kết quả quan sát quy mô lớn của Đài Quan Tượng xây dựng năm 1442 ở Bắc Kinh đã thiết lập nên hai danh mục sao đồ sộ là "Nghi tượng khảo thành" liệt kê vị trí của ngôi sao và "Nghi tượng khảo thành tục biên" với vị trí của ngôi sao. Hiện tượng tuế sai cũng được Ngu Hỷ phát hiện vào thế kỷ 4 và ghi lại trong sách "An thiên luận". Người Trung Quốc cũng có nhiều phát minh về dụng cụ thiên văn như cọc tiêu Mặt Trời, la bàn, đồng hồ mặt trời, đồng hồ nước... Khoảng năm 1100 TCN, Chu Công đã quan sát và đo bóng Mặt Trời lúc giữa trưa để xác định độ nghiêng của hoàng đạo so với xích đạo. Tuy nhiên, những thành tựu quan trọng nhất của thiên văn học Trung Quốc thể hiện ở lĩnh vực soạn lịch. Theo truyền thuyết và dã sử thì người Trung Quốc đã có lịch cách đây từ đến năm. Từ khoảng 600 năm trước Công Nguyên, họ đã có lịch âm dương kết hợp để phục vụ sản xuất nông nghiệp nên còn gọi là nông lịch. Cùng với Ai Cập, Trung Quốc là nơi sử dụng âm dương lịch sớm nhất. Tháng âm lịch tuần trăng bắt đầu từ ngày trăng non và có 29,5 ngày và cứ hai năm lại thêm một tháng nhuận cho phù hợp với năm dương lịch 365,25 ngày. Chu kỳ 19 năm một chương có bảy tháng nhuận ở các năm thứ 3,6, 8 hoặc 9, 11, 14, 17 và 19. Những ngày khí được đưa vào để thuận lợi cho thời vụ nông nghiệp. Cùng với tiến bộ về thiên văn học, toán học, lịch Trung Quốc thường xuyên được cải tiến với những nhà soạn lịch nổi tiếng Lưu Hồng, Hạ Thửa Thiên, Tổ Xung Chi, Lưu Chước, Quách Thủ Kính... Vào triều đại nhà Tần, Trung Quốc cũng đã có dương lịch với tháng tiết khí trung bình dài 30,44 ngày. Lịch sử dụng phổ biến trong dân gian là lịch can chi, dùng 10 can Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý và 12 chi Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, 60 năm thì tên gọi của một năm gồm can và chi lặp lại, chu kỳ đó gọi là 1 hội. Việt Nam và một số nước Đông Á, Đông Nam Á hiện vẫn đang dùng loại lịch sử dụng hệ đếm Can Chi ra đời cách đây khoảng năm này. Thiên văn Ấn độ[sửa] Công trình thiên văn học Jantar Mantar, thế kỷ 18, Ấn Độ. Trong bộ Kinh Vệ Đà ra đời cách đây trên năm, người Ấn Độ quan niệm rằng khởi thuỷ của vũ trụ là trạng thái hỗn độn, rồi nước được sinh ra đầu tiên, tiếp đến là lửa. Hơi nóng chứa đựng sức mạnh vô biên của lửa sinh ra "quả trứng trời đất", nửa trên là bầu trời, nửa dưới là mặt đất còn ở giữa là khoảng không phân cách. Bộ kinh này cũng cho rằng hoàng đạo là con đường của thần Surya thần Mặt Trời và người Ấn Độ cổ xưa chia hoàng đạo ra làm 28 chòm sao, đó là những "trạm nghỉ của Mặt Trăng" Mặt Trăng đi trọn một vòng hoàng đạo hết 27,3 ngày đêm. Toán học của Ấn Độ có những thành tựu rực rỡ và nhiều nhà toán học đồng thời cũng là nhà thiên văn học. Aryabhatta I 476-550 đã khẳng định rằng Trái Đất tự quay quanh trục của nó và chuyển động xung quanh Mặt Trời, đồng thời xác định độ dài của một năm dương lịch là 365 ngày 6 giờ 12 phút và 30 giây, một giá trị rất sát với tính toán hiện nay cũng như tính toán chu vi Trái Đất là dặm Anh số liệu hiện nay là dặm.Varahamihira 505 - 587, một nhà thiên văn Ấn Độ khác đã tổng kết nhiều thành tựu kiến thức của Hy Lạp và La Mã vào bộ sách Pancha-Siddhantika với năm luận thuyết của thiên văn 598 - 670 có những nghiên cứu về hiện tượng thiên thực, vị trí của các hành tinh trong tác phẩm Brahmasphutasiddhanta.

thành tựu của thiên văn học